Tục ngữ người Thái

Ngày 13/09/2017 09:55:18

Trong quá trình lao động sản xuất và giao tiếp ứng xử, người Thái qua nhiều thế hệ đã tích lũy kinh nghiệm, tạo nên một nguồn tri thức phong phú, đó là những câu tục ngữ.

1. Tục ngữ về nông nghiệp

Người Thái đúc rút được nhiều câu tục ngữ để khuyến nông. Người Thái đã có nhiều thực tiễn trên lĩnh vực làm lúa nước, coi trọng những khâu liên hoàn trong việc cấy trồng như nước, giống, phân. Họ khuyến khích phát triển ruộng nước, hạn chế phát nương làm rẫy, điều đó thể hiện ở các câu tục ngữ sau:

"Háy têm ta báu pán nà hới nọi"

(Nương bao la không bằng ruộng nhà một thửa)

"Pí đáy sớ đáy khoai

Pí xia sớ tái giác"

(Làm nương rẫy năm được thì được trâu

Năm mất thì chết đói)

Làm nương rẫy phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, nếu năm nào mưa gió thuận hòa thì năm đó được mùa, còn nếu năm nào thời tiết khắc nghiệt thì mất mùa cuộc sống bấp bênh. Mặt khác làm nương rẫy là phá rừng, huỷ hoại môi sinh, môi trường ảnh hưởng đến đời sống con người, chỉ làm ruộng nước mới chủ động, con người có thể áp dụng kỹ thuật, đưa năng suất sản lượng lên cao. Do vậy, trong nhận thức, người Thái cho rằng dù nương rẫy rộng bao nhiêu cũng không chắc ăn bằng một thửa ruộng con.

Ý thức làm ruộng còn được thể hiện thông qua việc lập mường, bản. Mường, bản của người Thái nói chung bao giờ cũng theo nguồn nước, nơi nào có sông suối thì nơi đó có người Thái thành lập bản mường. Hướng nhà của người Thái thường dựa lưng vào núi, mặt trước nhà quay ra hướng sông suối hoặc cánh đồng để tận hưởng nguồn nước:

"Kháu dú nà, pa dú nặm

Chăm chắng đáy kín, non nghin tai giác"

(Lúa dưới ruộng, cá dưới nước

Khéo làm có ăn, siêng nằm chết đói)

Do gắn bó lâu đời với nghề lúa nước nên trong kho tàng tri thức dân gian Thái còn bảo lưu được nhiều kinh nghiệm liên quan đến nghề gieo trồng lúa nước. Quá trình khai khẩn đất đai làm ruộng nước đã giúp người Thái rút ra nhiều kinh nghiệm, chọn những nơi đất màu mỡ để sản xuất và sáng tạo ra ruộng bậc thang. Từ lao động sáng tạo, người Thái tạo ra sự liên kết sức mạnh cộng đồng, sức mạnh ấy có cội nguồn từ nhu cầu tạo ra nhiều lúa gạo để nuôi sống con người.

2. Tục ngữ về khuyến lâm

Người Thái nói:

"Tái pá phăng, nhằng pa liệng"

(Sống rừng nuôi, chết rừng chôn)

Việc bảo vệ rừng, trồng rừng, nuôi dưỡng rừng đã từ lâu là trách nhiệm của cộng đồng, trở thành luật lệ của bản mường được người Thái lưu truyền qua các thế hệ:

"Dom pá bạy lùn lăng chắng má

Bạy hớ nặm chú bó láy lông

Phớ chứ đáy khoàm nặn mằn chắng pên cun"

(Giữ rừng cho muôn đời phát triển

Để cho muôn mó nước tuôn trào

Ai nhớ được câu ấy thì thành người)

Quan niệm của người Thái là rừng phải có cây cổ thụ che chắn cho các cây con và muôn loại sinh vật phát triển, cũng ví như trong bản trong mường có người già làm trụ cột, hướng dẫn con cháu xây dựng bản mường phát triển. Nhờ rừng có nhiều cây cổ thụ mà giữ được mùn, đất cằn tái sinh, mùn rác không trôi xuống lấp ruộng, nghẽn suối, nước mưa ngấm vào lòng đất ngăn những cơn lũ ống, lũ quét. Cách ứng xử với rừng như vậy là rất khoa học và nhân văn trong cái nhìn sinh thái học:

"Pa đông xông cột

Mạy mí khôn

Cun mí nuốt"

(Rừng bạt ngàn

Cây có lông (cây cổ thụ gốc mọc rêu)

Người có râu)

3. Tục ngữ về khuyến học

Người Thái rất coi trọng việc học hành, tôn trọng thày giáo, cô giáo, người đã dạy cho mình vào đời, đồng thời cũng khuyên mọi người phát huy tính tự lực, tự cường không trông chờ ỷ lại, thể hiện qua câu tục ngữ:

"Pó mé tạy, báu qua xày xon

Xày xón báu pớn chớ bòn há ngắm"

(Bố mẹ dạy không bằng thầy giáo dạy

Thày giáo dạy không bằng mình tự suy).

Người Thái xác định việc học hành là việc lâu dài, học suốt đời, còn sống còn phải học:

"Hóc lặc hóc cún tai

Hóc lài hóc tặm thấu"

(Học khôn học đến khi chết

Học khéo học đến già)

Một mình nghĩ không tròn, một thân lo không được, vàng mười xếp chật kho, chẳng biết liệu lo cũng bằng vàng rỉ. Học thày học bạn vô vạn phong lưu. Làm người mà được khôn ngoan, cũng nhờ học tập mọi đàng mới hay, nghề gì ta có trong tay mai sau rồi cũng có ngày có ích.

4. Tục ngữ khuyến cần

Tục ngữ Thái ca ngợi, khích lệ người siêng năng chăm làm và làm ăn có tính toán biết gắn cuộc sống của người lao động đối với vai trò, vị trí của mình trong xã hội, được xã hội quý mến, trân trọng. Ngay từ ngày mới trưởng thành con trai Thái phải học những việc cần thiết của người đàn ông như đan lát, tập chặt dao, rìu, tập cầm cày bừa..., con gái Thái phải học dệt thổ cẩm, thêu thùa, may vá, các công việc nội trợ:

"Ba háp lua

Hua pế đớp

Xong hặc hẹ ki níp pó tong

Xong mớ híu mác phặc"

(Vai gánh củi

Đầu gùi bế

Hai nách kẹp bó dong

Hai tay ôm bó rau quả)

"Khoóng só báu pò mự

Khoong sự báu pò mùa

Ệt đáy, đáy kin, non nghin tai giác"

(Của xin không đủ ngày,

Của mua không đủ năm,

Chăm làm có ăn, siêng nằm chết đói)

"Giác mì kin nhà nắng

Giác ệt hắng nhà non"

(Muốn có ăn đừng siêng ngồi

Muốn giàu đừng siêng nằm)

"Ngân khăm khoong phi phạ

Kháu nặm khoong phi then

Khoé khén ệt sớ đáy"

(Vàng bạc là của trời

Gạo nước là của then,

Khỏe tay làm sẽ được)

Những câu tục ngữ trên xây dựng đức tính yêu chuộng người ham làm, quý người xốc vác, ghét người nhác việc. Lười biếng chẳng ai thiết, siêng việc ai cũng mời chào

5. Về giáo dục cách sống, cách ứng xử

Tục ngữ Thái còn dạy đạo làm người, giáo dục mọi người đoàn kết sống vì cộng đồng, ăn ở phải có trước có sau, sống có phường có bạn, sống ngay thẳng thật thà, tôn trọng người già, quý trọng trẻ em:

"Cần nứng ngắm báu no

Cần nứng lo báu khóp"

(Một người nghĩ không nổi

Một người lội không khắp)

Người Thái quan niệm, sống lẻ loi không bạn bè dù có tài giỏi đến mấy cũng không thể xây dựng nên làng, nên bản. Muốn xây dựng nên làng nên bản cần phải đoàn kết tập hợp nhiều người có già, có trẻ:

"Lai móc pin phấn

Lai cần pin bán"

(Nhiều mây trời mới đổ mưa

Nhiều người mới nên làng nên bản)

"Ệt phục nom phạ đáy dú đi

Ệt phục nom phi đáy dú tháu"

(Làm phúc với trời thì được hưởng lộc đến già

Làm phúc với ma thì được thọ thêm tuổi)

Trong giao tiếp hàng ngày, cộng đồng người Thái cũng chú ý và giáo dục cho mọi người cái nên làm, cái không nên làm:

"Úp phái ngắm

Hắm phái dành"

(Nói phải suy, Đi phải nhìn)

"Giác kin bán sớ púc cuối

Giác thức xội sớ lặc khoài

Giác tái xớ ín mưa pí noọng"

(Muốn ăn ngọt thì trồng chuối

Muốn có tội thì trộm trâu

Muốn mất đầu thì yêu vợ người ta)

Phép lịch sự với khách đến nhà:

"Khéch táu hươn tí má

Cú mà hươn linh nọ"

(Khách đến nhà đừng đánh chó, Có bạn đến chớ đánh con)

"Mặc nòn nhà đăng lua đóc

Pác phóc nhà dú khớ tàng" (Hay ngủ đừng đốt củi mục, Hay nói tục chớ ở gần đường).

Về tính cộng đồng, quan niệm của người Thái cho rằng vỗ tay cần nhiều ngón, bàn kỹ cần đông người, nhiều cây làm nhà mới đẹp, nhiều cột chống vững sàn, nhiều anh em nhà mới vui vẻ, sống có bạn có phường mới hay, biết lo thì được vợ. Chớ eo xèo cơm đãi khách, chỗ dơ dếch chớ qua lại, chớ lê la nói mách, chớ nói dối ăn gian, không đi tắt về ngang, làm người phải trông rộng nghe xa, biết luật, biết lý mới là người tinh, rõ đường phải trái phân minh, sống có nghĩa có tình mới nên.

Kho tàng tục ngữ của người Thái là một trong những phương tiện để giáo dục con người trong gia đình và xã hội. Từ những câu tục ngữ cùng chủ đề, người Thái đã xâu chuỗi thành những bài ca có vần điệu, nhằm răn dạy con người cách sống. Những bài này được người Thái chép tay và lưu truyền phổ biến qua nhiều thế hệ trong cộng đồng bản mường, được truyền gọi là những bài răn dạy như Dặn con trước lúc nhắm mắt đi xa (Xắng lúc páy tài khoam mó phí)

"Luc óc chặm khinh pó ơi

Táng nghin tộc nhăng mi chớ khấn

Pó khoắm lụm bàu mi mớ khưn ma

Bậu khoam chá khoam chiên hớ luc

Chắng xứp bạy mưa ná ệt cân

Dú luân lằng tánh hươn đà xáng

Húa chớ quáng măn chắng ệt pín..."

(Con quý, con yêu ơi

Mặt trời lặn đến khi lại mọc

Bố ra đi không trở lại bao giờ

Phải nói lời chia tay vĩnh biệt

Dặn dò con điều ăn ở làm người

Con ở lại muốn nhà cao cửa rộng

Phải có tấm lòng thương mến bao dung...)

Tục ngữ Thái là một kho trí tuệ, một kho cái khôn cái khéo của người Thái, đồng thời nó cũng chứa đựng nhiều giá trị về lịch sử, dân tộc học mang đậm bản sắc dân tộc từ cách nghĩ, cách nói. Tục ngữ Thái đã tồn tại và phát triển cùng với những người sáng tạo ra nó hàng bao đời nay. Đó là một nguồn tri thức bản địa trong văn hóa phi vật thể của người Thái, góp phần làm nên sự phong phú trong văn hóa người Thái ViệtNam.
( Sưu tầm: Hà Phương Ân)

Tục ngữ người Thái

Đăng lúc: 13/09/2017 09:55:18 (GMT+7)

Trong quá trình lao động sản xuất và giao tiếp ứng xử, người Thái qua nhiều thế hệ đã tích lũy kinh nghiệm, tạo nên một nguồn tri thức phong phú, đó là những câu tục ngữ.

1. Tục ngữ về nông nghiệp

Người Thái đúc rút được nhiều câu tục ngữ để khuyến nông. Người Thái đã có nhiều thực tiễn trên lĩnh vực làm lúa nước, coi trọng những khâu liên hoàn trong việc cấy trồng như nước, giống, phân. Họ khuyến khích phát triển ruộng nước, hạn chế phát nương làm rẫy, điều đó thể hiện ở các câu tục ngữ sau:

"Háy têm ta báu pán nà hới nọi"

(Nương bao la không bằng ruộng nhà một thửa)

"Pí đáy sớ đáy khoai

Pí xia sớ tái giác"

(Làm nương rẫy năm được thì được trâu

Năm mất thì chết đói)

Làm nương rẫy phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, nếu năm nào mưa gió thuận hòa thì năm đó được mùa, còn nếu năm nào thời tiết khắc nghiệt thì mất mùa cuộc sống bấp bênh. Mặt khác làm nương rẫy là phá rừng, huỷ hoại môi sinh, môi trường ảnh hưởng đến đời sống con người, chỉ làm ruộng nước mới chủ động, con người có thể áp dụng kỹ thuật, đưa năng suất sản lượng lên cao. Do vậy, trong nhận thức, người Thái cho rằng dù nương rẫy rộng bao nhiêu cũng không chắc ăn bằng một thửa ruộng con.

Ý thức làm ruộng còn được thể hiện thông qua việc lập mường, bản. Mường, bản của người Thái nói chung bao giờ cũng theo nguồn nước, nơi nào có sông suối thì nơi đó có người Thái thành lập bản mường. Hướng nhà của người Thái thường dựa lưng vào núi, mặt trước nhà quay ra hướng sông suối hoặc cánh đồng để tận hưởng nguồn nước:

"Kháu dú nà, pa dú nặm

Chăm chắng đáy kín, non nghin tai giác"

(Lúa dưới ruộng, cá dưới nước

Khéo làm có ăn, siêng nằm chết đói)

Do gắn bó lâu đời với nghề lúa nước nên trong kho tàng tri thức dân gian Thái còn bảo lưu được nhiều kinh nghiệm liên quan đến nghề gieo trồng lúa nước. Quá trình khai khẩn đất đai làm ruộng nước đã giúp người Thái rút ra nhiều kinh nghiệm, chọn những nơi đất màu mỡ để sản xuất và sáng tạo ra ruộng bậc thang. Từ lao động sáng tạo, người Thái tạo ra sự liên kết sức mạnh cộng đồng, sức mạnh ấy có cội nguồn từ nhu cầu tạo ra nhiều lúa gạo để nuôi sống con người.

2. Tục ngữ về khuyến lâm

Người Thái nói:

"Tái pá phăng, nhằng pa liệng"

(Sống rừng nuôi, chết rừng chôn)

Việc bảo vệ rừng, trồng rừng, nuôi dưỡng rừng đã từ lâu là trách nhiệm của cộng đồng, trở thành luật lệ của bản mường được người Thái lưu truyền qua các thế hệ:

"Dom pá bạy lùn lăng chắng má

Bạy hớ nặm chú bó láy lông

Phớ chứ đáy khoàm nặn mằn chắng pên cun"

(Giữ rừng cho muôn đời phát triển

Để cho muôn mó nước tuôn trào

Ai nhớ được câu ấy thì thành người)

Quan niệm của người Thái là rừng phải có cây cổ thụ che chắn cho các cây con và muôn loại sinh vật phát triển, cũng ví như trong bản trong mường có người già làm trụ cột, hướng dẫn con cháu xây dựng bản mường phát triển. Nhờ rừng có nhiều cây cổ thụ mà giữ được mùn, đất cằn tái sinh, mùn rác không trôi xuống lấp ruộng, nghẽn suối, nước mưa ngấm vào lòng đất ngăn những cơn lũ ống, lũ quét. Cách ứng xử với rừng như vậy là rất khoa học và nhân văn trong cái nhìn sinh thái học:

"Pa đông xông cột

Mạy mí khôn

Cun mí nuốt"

(Rừng bạt ngàn

Cây có lông (cây cổ thụ gốc mọc rêu)

Người có râu)

3. Tục ngữ về khuyến học

Người Thái rất coi trọng việc học hành, tôn trọng thày giáo, cô giáo, người đã dạy cho mình vào đời, đồng thời cũng khuyên mọi người phát huy tính tự lực, tự cường không trông chờ ỷ lại, thể hiện qua câu tục ngữ:

"Pó mé tạy, báu qua xày xon

Xày xón báu pớn chớ bòn há ngắm"

(Bố mẹ dạy không bằng thầy giáo dạy

Thày giáo dạy không bằng mình tự suy).

Người Thái xác định việc học hành là việc lâu dài, học suốt đời, còn sống còn phải học:

"Hóc lặc hóc cún tai

Hóc lài hóc tặm thấu"

(Học khôn học đến khi chết

Học khéo học đến già)

Một mình nghĩ không tròn, một thân lo không được, vàng mười xếp chật kho, chẳng biết liệu lo cũng bằng vàng rỉ. Học thày học bạn vô vạn phong lưu. Làm người mà được khôn ngoan, cũng nhờ học tập mọi đàng mới hay, nghề gì ta có trong tay mai sau rồi cũng có ngày có ích.

4. Tục ngữ khuyến cần

Tục ngữ Thái ca ngợi, khích lệ người siêng năng chăm làm và làm ăn có tính toán biết gắn cuộc sống của người lao động đối với vai trò, vị trí của mình trong xã hội, được xã hội quý mến, trân trọng. Ngay từ ngày mới trưởng thành con trai Thái phải học những việc cần thiết của người đàn ông như đan lát, tập chặt dao, rìu, tập cầm cày bừa..., con gái Thái phải học dệt thổ cẩm, thêu thùa, may vá, các công việc nội trợ:

"Ba háp lua

Hua pế đớp

Xong hặc hẹ ki níp pó tong

Xong mớ híu mác phặc"

(Vai gánh củi

Đầu gùi bế

Hai nách kẹp bó dong

Hai tay ôm bó rau quả)

"Khoóng só báu pò mự

Khoong sự báu pò mùa

Ệt đáy, đáy kin, non nghin tai giác"

(Của xin không đủ ngày,

Của mua không đủ năm,

Chăm làm có ăn, siêng nằm chết đói)

"Giác mì kin nhà nắng

Giác ệt hắng nhà non"

(Muốn có ăn đừng siêng ngồi

Muốn giàu đừng siêng nằm)

"Ngân khăm khoong phi phạ

Kháu nặm khoong phi then

Khoé khén ệt sớ đáy"

(Vàng bạc là của trời

Gạo nước là của then,

Khỏe tay làm sẽ được)

Những câu tục ngữ trên xây dựng đức tính yêu chuộng người ham làm, quý người xốc vác, ghét người nhác việc. Lười biếng chẳng ai thiết, siêng việc ai cũng mời chào

5. Về giáo dục cách sống, cách ứng xử

Tục ngữ Thái còn dạy đạo làm người, giáo dục mọi người đoàn kết sống vì cộng đồng, ăn ở phải có trước có sau, sống có phường có bạn, sống ngay thẳng thật thà, tôn trọng người già, quý trọng trẻ em:

"Cần nứng ngắm báu no

Cần nứng lo báu khóp"

(Một người nghĩ không nổi

Một người lội không khắp)

Người Thái quan niệm, sống lẻ loi không bạn bè dù có tài giỏi đến mấy cũng không thể xây dựng nên làng, nên bản. Muốn xây dựng nên làng nên bản cần phải đoàn kết tập hợp nhiều người có già, có trẻ:

"Lai móc pin phấn

Lai cần pin bán"

(Nhiều mây trời mới đổ mưa

Nhiều người mới nên làng nên bản)

"Ệt phục nom phạ đáy dú đi

Ệt phục nom phi đáy dú tháu"

(Làm phúc với trời thì được hưởng lộc đến già

Làm phúc với ma thì được thọ thêm tuổi)

Trong giao tiếp hàng ngày, cộng đồng người Thái cũng chú ý và giáo dục cho mọi người cái nên làm, cái không nên làm:

"Úp phái ngắm

Hắm phái dành"

(Nói phải suy, Đi phải nhìn)

"Giác kin bán sớ púc cuối

Giác thức xội sớ lặc khoài

Giác tái xớ ín mưa pí noọng"

(Muốn ăn ngọt thì trồng chuối

Muốn có tội thì trộm trâu

Muốn mất đầu thì yêu vợ người ta)

Phép lịch sự với khách đến nhà:

"Khéch táu hươn tí má

Cú mà hươn linh nọ"

(Khách đến nhà đừng đánh chó, Có bạn đến chớ đánh con)

"Mặc nòn nhà đăng lua đóc

Pác phóc nhà dú khớ tàng" (Hay ngủ đừng đốt củi mục, Hay nói tục chớ ở gần đường).

Về tính cộng đồng, quan niệm của người Thái cho rằng vỗ tay cần nhiều ngón, bàn kỹ cần đông người, nhiều cây làm nhà mới đẹp, nhiều cột chống vững sàn, nhiều anh em nhà mới vui vẻ, sống có bạn có phường mới hay, biết lo thì được vợ. Chớ eo xèo cơm đãi khách, chỗ dơ dếch chớ qua lại, chớ lê la nói mách, chớ nói dối ăn gian, không đi tắt về ngang, làm người phải trông rộng nghe xa, biết luật, biết lý mới là người tinh, rõ đường phải trái phân minh, sống có nghĩa có tình mới nên.

Kho tàng tục ngữ của người Thái là một trong những phương tiện để giáo dục con người trong gia đình và xã hội. Từ những câu tục ngữ cùng chủ đề, người Thái đã xâu chuỗi thành những bài ca có vần điệu, nhằm răn dạy con người cách sống. Những bài này được người Thái chép tay và lưu truyền phổ biến qua nhiều thế hệ trong cộng đồng bản mường, được truyền gọi là những bài răn dạy như Dặn con trước lúc nhắm mắt đi xa (Xắng lúc páy tài khoam mó phí)

"Luc óc chặm khinh pó ơi

Táng nghin tộc nhăng mi chớ khấn

Pó khoắm lụm bàu mi mớ khưn ma

Bậu khoam chá khoam chiên hớ luc

Chắng xứp bạy mưa ná ệt cân

Dú luân lằng tánh hươn đà xáng

Húa chớ quáng măn chắng ệt pín..."

(Con quý, con yêu ơi

Mặt trời lặn đến khi lại mọc

Bố ra đi không trở lại bao giờ

Phải nói lời chia tay vĩnh biệt

Dặn dò con điều ăn ở làm người

Con ở lại muốn nhà cao cửa rộng

Phải có tấm lòng thương mến bao dung...)

Tục ngữ Thái là một kho trí tuệ, một kho cái khôn cái khéo của người Thái, đồng thời nó cũng chứa đựng nhiều giá trị về lịch sử, dân tộc học mang đậm bản sắc dân tộc từ cách nghĩ, cách nói. Tục ngữ Thái đã tồn tại và phát triển cùng với những người sáng tạo ra nó hàng bao đời nay. Đó là một nguồn tri thức bản địa trong văn hóa phi vật thể của người Thái, góp phần làm nên sự phong phú trong văn hóa người Thái ViệtNam.
( Sưu tầm: Hà Phương Ân)

Từ khóa bài viết:, ,
0 bình luận
(Bấm vào đây để nhận mã)